CÂY CỦ NƯA
Tên khác: Chột nưa, Khoai na, Khoai ngái, Củ nhược.
Tên khoa học: Amorphophallus rivieri Dur. syn. A. konjac K. Koch, họ Ráy (Araceae). Cây mọc hoang ở rừng thưa, ven suối, chỗ ẩm, đất nhiều mùn. Có nơi trồng lấy củ để ăn và nuôi lợn.
Mô tả: Cây thảo, có thân củ to, hình củ dẹt, đường kính 15-20cm. Lá có cuống dài 40-80cm, màu lục nâu có những đốm trắng chia làm 3 nhánh, các nhánh lại phân đôi, phiến lá xẻ thùy hình lông chim. Cụm hoa là một bông mo bao bọc bởi mo có phiến rộng, mép lượn sóng, mặt trong màu tím nâu thẫm. Trụm cụm hoa dài gấp đôi mo, mang hoa đực ở trên, hoa cái ở dưới đều không có bao hoa. Quả mọng, mùa ra hoa tháng 3 và tháng 5.
Bộ phận dùng: Thân Cây Củ nưa thu hoạch vào mùa đông, cạo sạch vỏ ngoài phơi hay sấy khô. Khi dùng nấu chín nhừ, thái mỏng, ngâm nước vo gạo 24 giờ, sau ngâm nước phèn chua 12 giờ, phơi khô nấu với gừng. (1kg Củ nưa cho 100g gừng) rồi sao cho thơm.
Thành phần hóa học chính: Tinh bột (thành phần chủ yếu Konjacmannan), chất gây ngứa.
Công dụng: Củ nưa có vị cay và ngứa, có tác dụng diệt khuẩn tiêu viêm, hạ sốt, giải độc. Tinh bột dùng để ăn và nấu rượu.
Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 10-50g, dạng thuốc sắc, dùng riêng hay phối hợp các vị thuốc khác.
Bài thuốc:
1. Chữa liệt nửa người (sau tai biến mạch máu não, chấn thương nặng vùng thắt lưng): Củ nưa sống 10g, Ô đầu 1g, Phụ tử 1g, nước 600ml sắc còn lại 100ml, chia uống nhiều lần trong ngày, uống sau khi ăn no (thuốc có độc, cẩn thận khi dùng).
2. Chữa mụn nhọt, sưng tấy, rắn cắn: Củ nưa tươi giã nát đắp lên mụn nhọt, vết thương.
3. Chữa sốt rét, ăn chậm tiêu: Củ nưa phơi khô 4-12g sắc uống.
4. Chữa ho, nhiều đờm: Củ nưa, Trần bì, Bán hạ nam mỗi thứ 40g, sao thơm, tán mịn, dùng nước cốt gừng quấy hồ, làm viên bằng hạt ngô, mỗi lần dùng 30 viên. Trẻ em trên 10 tuổi trở lên mỗi lần dùng 10-15 viên.